Sau 80 năm kể từ ngày thành lập nước, nói về những thành tựu trong nông nghiệp, bà Nguyễn Thị Thành Thực đánh giá những thành tích về sản lượng, năng suất, hiệu quả sử dụng đất đai, hay thu nhập của người dân đều tăng rất tốt. Thế nhưng, cũng có những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ vì không định vị được thị trường, cũng như không định vị được giá trị của mình.
Chuyên gia này cho rằng, Việt Nam cần tìm lại những lợi thế "trời ban" như những giống gien bản địa, những đặc thù của các tiểu vùng khí hậu, hay những nơi rất dồi dào khoáng chất tự nhiên.
"Tất nhiên, sẽ lại phải mất một thời gian rất dài để thay đổi thói quen canh tác, thay đổi cách làm. Nhưng nếu còn chạy theo sản lượng, chúng ta vẫn sẽ thua những nước đã đầu tư tự động hóa, công nghiệp hóa với những cánh đồng mẫu lớn" - bà Thực chia sẻ.

Với góc nhìn của một người sinh ra từ vùng nông nghiệp, có nhiều năm theo dõi và trực tiếp làm trong ngành nông nghiệp, bà đánh giá, đến nay, đâu là những điểm nhấn quan trọng mà có thể coi là thành tựu của lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam?
Nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta đã trải qua nạn đói nghiêm trọng vào những năm 1944-1945, ngay sau đó tiếp tục là chiến tranh liên miên, và tuổi thơ của những người ở thế hệ tôi , là lớn lên trong sự nghèo đói và cơ cực. Chúng tôi làm suốt ngày, suốt đêm, mà vẫn không đủ ăn, vì lúc đó cần chi viện cho cách mạng miền Nam.
Kể cả sau khi đã thống nhất đất nước, tình hình vẫn rất khó khăn. Cho đến Khoán 10, mới bắt đầu có thể nói là ấm no, cuộc sống tốt lên, thu nhập tốt lên, năng suất lao động cao lên.
Ngành nông nghiệp của ta, từ chỗ bị đô hộ, từ chỗ thiếu ăn, từ chiến tranh đến khi no ấm và xuất khẩu được, phát triển được rất nhiều ngành hàng và có thương hiệu, có vai trò đối với thế giới, góp phần vào an ninh lương thực của thế giới là một quãng đường dài.
Sau 80 năm, những thành tích về sản lượng, năng suất, hiệu quả sử dụng đất đai, hay thu nhập của người dân đều tăng rất tốt. Thế nhưng, cũng có những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ.

Trong chiến tranh, chúng ta bị cấm vận, không có hóa chất để sử dụng trong nông nghiệp, nên tất cả đều là kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Chính thời điểm đó, thế hệ chúng tôi được tiếp thu nhiều nhất về nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn và giống, gien bản địa, cũng như hiểu rõ nhất giá trị ẩm thực của các loại gia vị tự nhiên, các món ăn truyền thống.
Tuy nhiên, ngày ấy năng suất còn thấp, bởi chúng ta chưa có khoa học kỹ thuật, chưa có sự nghiên cứu bài bản, nên lao động trong ngành nông nghiệp rất vất vả, phải cày cấy, làm hoàn toàn thủ công.
Nếu như chúng ta giữ được cách làm hữu cơ như thế, rồi phát triển lên để cho năng suất cao, thì tốt đẹp vô cùng.
Nhưng sau khi mở cửa nền kinh tế, các loại hóa chất được nhập khẩu, được đưa vào nông nghiệp, khiến năng suất cao vọt lên, người làm nông nhàn hơn, không còn vất vả nữa. Chúng ta còn chưa có kinh nghiệm, còn thiếu kiến thức để phân tích lợi hại, và bắt đầu có sự lạm dụng các hóa chất này.
Tôi nhớ như in những ngày tôi cùng mẹ đeo bình thuốc trừ sâu đi phun giữa trời nắng chang chang, say thuốc, rồi phải đi cấp cứu. Lạm dụng hóa chất trong nông nghiệp, đã dẫn đến hệ lụy là biết bao ngôi làng chìm trong bệnh tật. Rõ ràng nông dân đã bỏ công, bỏ sức để làm ra nông sản, cuối cùng lại phải bán hết cả gia sản đi để chữa ung thư.

Trong khi đó, các tập đoàn ở Mỹ, châu Âu, chính những người tạo ra phân, thuốc hóa học lại đưa ra phân tích rằng các loại hóa chất này không tốt cho sức khỏe con người và tập trung nghiên cứu công nghệ vi sinh, hữu cơ, đưa ra các tiêu chuẩn sản phẩm cao hơn, quay trở lại những kiến thức, kinh nghiệm mà chúng ta đã làm rất tốt từ mấy chục năm trước.
Đó là sự thiệt thòi của những nước không định vị được thị trường, cũng không định vị được giá trị của mình.

Vậy làm thế nào để chúng ta định vị đúng giá trị của mình trong nông nghiệp thế giới?
Bây giờ là giai đoạn kinh tế khá giả, phát triển rồi, người dân quan tâm đến sức khỏe hơn, quan tâm đến môi trường hơn, quan tâm đến ăn đúng hơn. Và chúng ta phải quay lại nhìn lại những thứ cách đây 60 năm chúng ta đã làm, những kinh nghiệm về nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, tìm lại sự khác biệt, những giống gien bản địa, những đặc thù của các tiểu vùng khí hậu, ví dụ như những khu vực có chênh lệch nhiệt độ ngày đêm cao, hay những nơi rất dồi dào khoáng chất tự nhiên - tất cả là lợi thế mà trời ban mà chúng ta cần tìm lại.
Và chúng ta phải làm mới những cái cũ ấy, bằng việc mà kết hợp ứng dụng với khoa học công nghệ, với nhu cầu của thị trường bây giờ.
Tất nhiên, sẽ lại phải mất một thời gian rất dài để thay đổi thói quen canh tác, thay đổi cách làm. Nhưng nếu còn chạy theo sản lượng, chúng ta vẫn sẽ thua những nước đã đầu tư tự động hóa, công nghiệp hóa với những cánh đồng mẫu lớn.
Ngày trước, chúng ta thiếu một yếu tố vô cùng quan trọng - thiếu thông tin. Vì thiếu thông tin nên chúng ta cập nhật khoa học công nghệ rất chậm và đắt đỏ. Chính vì thế, sự hội nhập và chuyển đổi số - những điều mà Chính phủ đang rất quan tâm - sẽ đem lại cơ hội cực kỳ lớn cho nông nghiệp, nhất là khi thương mại điện tử kết nối xuyên biên giới, đưa chúng ta đến gần thị trường hơn.
Đặc biệt là thời nay, sau đại dịch Covid-19, người ta càng nói nhiều về về sức khỏe. Những món ăn bản địa của Việt Nam ngày xưa, mỗi một món ăn là một bài thuốc. Việt Nam cũng là thiên đường của của các loại nông dược. Những rau dại, ví dụ như rau dền, rau sam rồi rau tầm bóp ngày xưa, chúng ta là coi nó là cỏ dại, chúng ta phải diệt, nhưng đó lại là những nông dược giá trị nhất, bởi sức sống của nó rất là mãnh liệt và nhiều dưỡng chất, vậy mà chúng ta lại đi diệt phá? Trong khi những giống cây ngoại lai du nhập về, chúng ta lại phụ thuộc vào giống, vào kỹ thuật của họ đó. Ta đang rơi vào một vòng luẩn quẩn như vậy.

Những trọng tâm nào mà ta cần quan tâm lớn nhất để thực sự làm nổi bật sự những lợi thế mà Việt Nam có trong nông nghiệp?
Có những khái niệm rất quan trọng trong nông nghiệp hiện đại, mà Việt Nam chưa thực sự quan tâm.
Hiện nay, chúng ta mới quan tâm đến an ninh lương thực, nhưng đúng ra, khi chúng ta đã xuất khẩu được rồi, đừng chỉ nghĩ đến an ninh lương thực nữa. Đã có những giống lúa ngắn ngày có thể cấy ở đồng bằng sông Cửu Long bốn vụ, một năm, chỉ 80-90 ngày đã có một vụ lúa thu hoạch rồi. Giờ đây chúng ta cần nghĩ đến "an ninh dinh dưỡng" - điều mà những nước tiến bộ giờ rất quan tâm.

An ninh dinh dưỡng là ăn đúng, ăn đủ, ăn phù hợp, là rất quan trọng. Đầu tiên là để giảm bệnh, giảm gánh nặng y tế cho xã hội, làm cho cuộc sống của con người hạnh phúc hơn.
Triết lý của ông tổ ngành y Hippocrates là "Our food should be our medicine and our medicine should be our food" ("Thực phẩm của chúng ta nên là thuốc, và thuốc nên là thực phẩm"). Tôi tôn thờ triết lý này để ứng dụng cho ngành nông nghiệp.
Còn một lĩnh vực cực kỳ quan trọng mà nông nghiệp của chúng ta chưa tập trung đầu tư, đó là vi sinh - là công nghệ cao nhất trong nông nghiệp. Vi sinh có thể tái tạo đất, có thể kháng bệnh , không cần dùng thuốc kháng sinh, không cần dùng thuốc bảo vệ thực vật. Việt Nam là thiên đường của vi sinh, nhưng lại phải nhập vi sinh hữu cơ từ Mỹ, từ Châu Âu, hay ngành ngành công nghệ vi sinh của Thái Lan hoặc của Trung Quốc cũng đã rất phát triển, đem lại lợi ích cực kì lớn khi giảm chi phí sản xuất.
Một yếu tố nữa khiến chuỗi giá trị các ngành hàng của chúng ta không bền vững, đó là chúng ta không có thương mại công bằng.
Một chuỗi giá trị trong nông nghiệp, trồng trọt có liên quan đến rất nhiều mắt xích: từ người cung cấp giống, đến người sản xuất, người thu hoạch, người vận chuyển, người chế biến, người bán hàng…
Thiếu công bằng ở đây, có thể là những người đi buôn, đầu tư tài chính nhiều, nhưng mức độ rủi ro thấp. Trong khi đó, người nông dân trồng cả năm trời mới được thu hoạch. Có thể là họ cũng không phải đầu tư nhiều, mà nhờ vào khí hậu, thổ nhưỡng, nhờ vào đất đai có sẵn. Thế nhưng họ cũng chịu rủi ro rất lớn.
Hay chúng ta có những vùng trồng lúa giỏi, cũng có những vùng không có đất để sản xuất, thì lại làm chế biến giỏi. Nhưng cả chuỗi này, công đoạn chế biến là đầu ra, lại thiếu sự quan tâm.
Ví dụ làng bánh đa nem Thổ Hà mới được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, phải nói là ngon nhất thế giới, tôi thường mua làm quà ngoại giao. Nhưng làng Thổ Hà không có đất, phát triển làng nghề thì nhà nào cũng chật, con cháu có nguy cơ bỏ mất nghề, hay không đủ cơ sở vật chất để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, thì không xuất khẩu được, lại để các vùng khác thu mua về xuất khẩu. Những địa phương như vậy cần nhận được sự quan tâm để giữ lại nghề truyền thống, từ đó trở thành nền tảng cho doanh nghiệp chế biến, xây dựng du lịch trải nghiệm.

Muốn một ngành hàng bền vững, thì cả chuỗi giá trị phải công bằng, ai cũng phải có thu nhập xứng đáng, cuộc sống phải tốt hơn, người tiêu dùng cũng đồng ý trả giá cao hơn với những sản phẩm an toàn, bền vững, tạo ra cả một chuỗi có trách nhiệm với nhau. Đó là công bằng.
Tóm lại, chúng ta vẫn đang thiếu những yếu tố căn cơ để có một ngành nông nghiệp phát triển bền vững. Nông nghiệp của Việt Nam cũng đã được nhắc đến nhiều, nhưng bây giờ là giai đoạn mà nếu làm đúng, nông nghiệp Việt có thể khẳng định được vị thế của mình.

Vậy đâu là căn cơ để nông nghiệp Việt có thể khẳng định vị thế, kể cả với quốc tế, và với những lĩnh vực khác mà Việt Nam đang dồn nhiều nguồn lực phát triển?
Ta đang nói nhiều về công nghệ, công nghiệp, nhưng rõ ràng không thể dồn toàn bộ nguồn lực xã hội tập trung vào đó được. Tất nhiên, với những lĩnh vực đó, có thể một người đi làm tạo ra thu nhập nuôi cả gia đình. Thế nhưng người ta sẽ đi du lịch ở đâu, ăn gì, chơi gì?
Ăn, và chơi là hai thứ mà nông nghiệp Việt Nam có thể làm rất tốt. Món ăn Việt Nam được thế giới rất ưa chuộng, và sẽ còn tốt hơn nếu chúng ta bám vào cách ăn đúng, ăn dinh dưỡng. Người ta đến một vùng du lịch của Việt Nam, người ta muốn được ở trong môi trường tốt, khí hậu trong lành, rồi lại được ăn ngon, ăn đúng. Ăn ngon rồi lại có thể mua thường xuyên, thông qua thương mại xuyên biên giới đấy. Đó sẽ là câu chuyện của Việt Nam, tận dụng hoàn toàn lợi thế của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Còn hiện nay, đến bản thân chúng ta còn không dám về sống ở nông thôn, bản thân chúng ta còn sợ ô nhiễm, sợ chất độc, thì làm sao phát triển được ngành du lịch?

Nông nghiệp đã có nhiều cái được, nhưng vẫn còn rất nhiều cái chúng ta phải điều chỉnh và rút kinh nghiệm, để tạo ra thương hiệu bền vững. Mà đối với nông nghiệp thì không có doanh nghiệp đơn lẻ nào, hay người dân nào có thể làm thương hiệu cho nông sản của một quốc gia, ngoài Chính phủ của chính quốc gia đó.
Ví dụ như nói đến Thái Lan người ta sẽ nghĩ ngay đến sầu riêng. Dù Malaysia làm ngành hàng này tốt hơn rất nhiều, giống cũng vượt trội hơn rất nhiều nhưng Thái Lan lại có thương hiệu tốt nhất.
Thái Lan thậm chí có đại diện ngành hàng sầu riêng ở ngay tại Trung Quốc. Gặp bất kỳ vấn đề gì họ đều có thể xử lý ngay, phản ứng ngay. Việt Nam thì chưa có, mà doanh nghiệp Việt Nam vốn vào nông nghiệp ít, chủ yếu là thương nhân nước ngoài mua tại thị trường, trực tiếp tại nguồn cung, chính vì thế mà chúng ta không sâu sát với thị trường.
Chúng ta rất cần một chiến lược thương hiệu quốc gia.
Chúng ta đã làm rất tốt nguồn cung lúa gạo, thì phải hiểu được rằng sản phẩm lúa gạo của mình, người ta đem về làm gì. Tôi chưa thấy thương hiệu cơm của Việt Nam bán ở nước ngoài, nhưng nước ngoài thì lại có rất nhiều thương hiệu cơm ăn liền. Tại sao ta có gạo, nhưng lại không thể làm ra cơm ăn liền?
Nói đến phở là người ta nói đến Việt Nam, nhưng dân tộc bán phở nhiều nhất trên thế giới lại là người Hoa (họ rất nhạy bén). Bánh đa nem cũng của chúng ta, nhưng bán ra nước ngoài chủ yếu là thương hiệu Thái, và người ta cũng sẵn sàng trả giá cao hơn cho hàng Thái.
Thử hỏi có bao nhiêu thương hiệu phở Việt bán được ra nước ngoài? Tại sao chúng ta không xuất khẩu được nhiều thương hiệu phở hay bánh đa nem? Trong khi đó, Trung Quốc đang hậu thuẫn rất lớn cho doanh nghiệp đi đầu tư ở nước ngoài để xây dựng thương hiệu.
Cà phê Robusta Việt Nam cũng chưa có tên trong cà phê đặc sản thế giới. Mỹ và Anh là hai nước không trồng cà phê nhưng lại thành lập Hiệp hội cà phê đặc sản, họ lại chi phối ngành cà phê.

Người Việt ở nước ngoài cũng chưa có những cộng đồng mạnh về ẩm thực. Chúng ta cần phải suy nghĩ về điều đó. Nhà nước có thể có người đại diện ở thị trường nước ngoài, nhưng các cơ quan nhà nước không thể nắm được hết thông tin thị trường, không thể cập nhật sát sao bằng các doanh nghiệp và nhà sản xuất được.
Trước mắt, những ngành hàng cần làm trước là sản phẩm từ gạo và cà phê. Đặc biệt, cà phê đặc sản là cơ hội cực kỳ lớn để cho các doanh nghiệp nhỏ, các nông hộ, các hợp tác xã của Việt Nam có thể làm được. Cà phê đặc sản yêu cầu tỉ mỉ, làm công nghiệp cũng không dễ mà làm được cà phê đặc sản. Thu hoạch cũng phải thu trái chín, khó mà thu bằng máy, chế biến cũng phải ủ men lên men đến hai mươi hai mấy ngày mới được một mẻ cà phê. Cho nên, những hạt cà phê đặc sản có thể 1 triệu 2 triệu một ký hoàn toàn xứng đáng.
Cần quảng bá thật mạnh ở các nước, quảng bá thật mạnh để nói đến Việt Nam là phải thưởng thức cà phê Việt, phải ăn phở, ăn cơm của Việt Nam. Chúng ta phải có những cộng đồng người Việt ở nước ngoài làm nông nghiệp , ẩm thực , quy mô nhỏ cũng được, bởi tất cả những phương pháp chế biến tinh túy ấy cũng không thể sản xuất với quy mô công nghiệp mà ra được.
Mong ước của tôi, là sau này, số người Việt làm chủ trong lĩnh vực ẩm thực ở nước ngoài, cũng nhiều như số người Việt làm chủ tiệm nails.
Cảm ơn chia sẻ của bà!