TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi

Khu vực tư nhân Việt Nam hiện đang chứng kiến sự áp đảo của các doanh nghiệp ngân hàng và bất động sản. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đây là điều hiển nhiên, là giai đoạn tích lũy tất yếu mà nhiều quốc gia từng trải qua để bước vào công nghiệp hóa, phát triển khoa học công nghệ.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 1.

PV: Theo bảng xếp hạng Private 100 năm 2025 gồm các doanh nghiệp tư nhân nộp ngân sách lớn nhất Việt Nam do CafeF công bố, top 30 doanh nghiệp tư nhân phần lớn là doanh nghiệp bất động sản, ngân hàng, chứng khoán, ngoài ra có một số doanh nghiệp ngành bán lẻ, tiêu dùng, công nghệ. Trong đó có tới 10 ngân hàng tư nhân nằm trong danh sách. Ông có đánh giá thế nào về bức tranh này?

TS Lê Xuân Nghĩa: Hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân tại Việt Nam chỉ mới phát triển mạnh ở một số lĩnh vực, trong đó nổi bật nhất là ngân hàng và bất động sản. Ngoài ra cũng có một số doanh nghiệp công nghiệp như cơ khí chế tạo, nhưng số lượng không nhiều, hầu hết vẫn còn non trẻ, và cũng chưa có được cái sức mạnh thực sự trên thị trường.

Ở Việt Nam, việc lập được một tập đoàn công nghiệp đúng nghĩa thì gần như chỉ có mỗi Vingroup là đang cố gắng làm.

Còn lại thì phần lớn các doanh nghiệp lớn nhất là doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ như các tập đoàn như dầu khí, than, điện... có tài sản rất lớn, có thể sánh ngang với các ngân hàng thương mại cổ phần lớn.

Nếu nói về xuất khẩu, thì tập trung chủ yếu vẫn là dệt may, đồ nhựa, đồ gỗ, sắt kết cấu, đây là những ngành mang về giá trị xuất khẩu đáng kể, tuy nhiên, phần lớn các mặt hàng này lại có xu hướng giảm.

Còn những con số "ấn tượng" như Việt Nam đứng top xuất khẩu linh kiện điện tử, máy tính thì thực chất là đến từ khu vực FDI, chứ không phải doanh nghiệp nội địa.

Quy mô doanh nghiệp tư nhân nội địa cũng có những đơn vị lớn đấy, nhưng phần lớn lại tập trung vào ngân hàng và bất động sản.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 2.

Và thực tế, việc ngân hàng chiếm phần lớn trong nền kinh tế cũng là điều hiển nhiên, nhiều quốc gia khác cũng vậy. Ở phương Tây thì sự phát triển tài chính là đỉnh cao của chuỗi giá trị. Nó tạo ra hệ sinh thái bao gồm cả người tiêu dùng, nhà sản xuất, hệ thống tài chính và công nghệ đi kèm. Có những ngân hàng đóng vai trò rất lớn, thậm chí thể hiện sức mạnh của quốc gia.

Ở hầu hết các nước phát triển và có thu nhập trung bình trở lên đều có hệ thống ngân hàng mạnh. Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thường gấp từ 1,6 lần đến trên 2 lần GDP, cá biệt Tổng tài sản của các ngân hàng Thụy Sĩ gấp tới 4,7 lần GDP và là nước có thu nhập quốc dân bình quân đầu người cao nhất thế giới. Thái Lan có Tổng tài sản các ngân hàng cao gấp 1,8 lần GDP, Việt Nam tỷ lệ này khoảng 1,6 lần trong đó Tổng tài sản của ngân hàng tư nhân Việt Nam chiếm trên 45%. Một quốc gia hùng mạnh phải có hệ thống ngân hàng hùng mạnh và hiệu quả.

Nhiều người có góc nhìn khá tiêu cực với việc lĩnh vực bất động sản và ngân hàng là 2 ngành lớn mạnh nhất, ông nghĩ sao về điều này?

Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng hoạt động nhiều nhất là trong lĩnh vực bất động sản, công nghiệp, nông nghiệp và tiêu dùng.

Tương tự ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay bất động sản và tiêu dùng cũng ở mức rất cao, cao hơn nhiều so với cho vay sản xuất kinh doanh. Người ta đã phát triển tới mức mà doanh nghiệp sản xuất gần như không cần vay vốn dài hạn từ ngân hàng nữa, họ dùng vốn tự có là chính và cần thêm thì họ huy động vốn qua thị trường chứng khoán, ngân hàng chủ yếu cấp vốn lưu động.

Cho vay tiêu dùng ở họ thì có vay mua nhà, vay mua ô tô cá nhân, và vay cho giáo dục,…Còn vay trực tiếp cho sản xuất kinh doanh thì chỉ chiếm khoảng 8% - 10% ở Châu Âu, và cao hơn chút ít ở các nước phát triển khác.

Vì sao cho vay bất động sản lại nhiều đến vậy? Suy cho cùng, bất động sản là thị trường tài sản lớn nhất, người dân tích lũy tài sản ở đấy. Nhiều người hay nhìn thị trường bất động sản với góc độ tiêu cực, nhưng thật ra đây là thị trường tài sản lớn nhất của nền kinh tế.

Ví dụ, nếu nhìn vào giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán, giả sử bằng khoảng 70% GDP, thì giá trị vốn hóa của thị trường bất động sản gấp nhiều lần GDP. Hầu hết người dân đều đổ tiền vào nhà ở. Khi nói đến tài sản của hộ gia đình, phần lớn nằm trong nhà ở và bất động sản khác. Tài sản thực sự, nếu nói một cách đơn giản, thì phần lớn người dân chỉ có cái nhà, ngoài ra là ít tiết kiệm.

Nếu tính trên toàn cầu, GDP của thế giới khoảng 120.000 tỷ USD. Trong khi đó, tổng giá trị vốn hóa của thị trường bất động sản toàn cầu gấp khoảng 3 lần, đạt hơn 350.000 tỷ USD. Ở Trung Quốc, GDP là khoảng 19.000 tỷ USD, nhưng giá trị vốn hoá của bất động sản là khoảng 57.000 tỷ USD. Điều này cho thấy, nếu tín dụng ngân hàng dồn nhiều vào bất động sản thì cũng không có gì lạ, vì đây là thị trường lớn nhất.

Cuộc sống của một người, trong ăn, ở, đi lại, học hành,… thì yếu tố "ở", tức là nhà ở, bất động sản luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản. Đây không chỉ là tài sản của từng người mà là tài sản của cả cộng đồng, của quốc gia. Cần phải nghiên cứu lại cách nhìn nhận về bất động sản cho đúng.

Hiện nay, thực trạng là doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam tập trung chủ yếu vào ngân hàng và bất động sản, điều đó đúng quy luật. Đây là quá trình tích lũy ban đầu để phát triển công nghiệp và dịch vụ.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 3.

Sự chuyển dịch đó cụ thể sẽ diễn ra như thế nào?

Nếu nhìn vào cách tính toán của VinGroup thì thấy rõ điều đó. Không thể trông cậy vào hệ thống ngân hàng để đi vào công nghiệp vì món vay nhỏ, kỳ hạn ngắn và lãi suất cao. Muốn làm, VinGroup buộc phải dùng bất động sản để tích lũy tiền tư bản. Và muốn làm công nghiệp hiện đại, phải thực hiện ít nhất hai việc lớn.

Việc thứ nhất là xây dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao và thu hút nhân tài trong và ngoài nước.

Việc thứ hai là phải có nguồn vốn để đầu tư Nghiên cứu và Phát triển và đưa vào ứng dụng. Nhưng vốn ở đâu? Trong nước thì gần như không thể huy động nổi một khoản vay lớn. Khó có ngân hàng nào dám cho vay một lúc nửa tỷ đô, chứ đừng nói tới 1 tỷ đô, lại còn vay dài hạn 15–20 năm.

Mà công nghiệp là phải xác định có thể lỗ suốt 5–7 năm đầu. Như VinFast hiện nay vẫn trong quá trình khởi nghiệp, đến năm 2030 mới dự kiến hòa vốn, có lãi. Đó là lộ trình rất gian nan của công nghiệp thực sự.

Tại Hàn Quốc, giai đoạn đầu cũng là tích lũy từ bất động sản, từ tài chính. Hay Trung Quốc thì họ phát triển các ngân hàng sở hữu nhà nước thành những ngân hàng khổng lồ, từ đó bắt đầu phát triển mạnh công nghiệp, công nghệ.

Thực tế cho thấy, quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước Đông Nam Á đang gặp không ít trở ngại nếu không muốn nói là thất bại so với Đông Bắc Á. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do các dự án công nghiệp, như sản xuất ô tô, chế tạo máy, đóng tàu...đều đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, thời gian đầu tư kéo dài và đặc biệt là cần mức lãi suất thấp để đảm bảo tính khả thi.

Muốn làm được điều đó, cần phải có những ngân hàng có quy mô đủ lớn, sẵn sàng cho vay những khoản dài hạn. Không thể triển khai công nghiệp chỉ bằng các khoản vay ngắn hạn, vài nghìn tỷ, vài chục nghìn tỷ đồng. Đầu tư công nghiệp thì ít nhất phải 4 – 5 năm mới bắt đầu vận hành, nên vay ngắn hạn không giúp được gì.

Vấn đề quan trọng nữa là lãi suất. Phải giữ mặt bằng lãi suất ở mức thấp thì doanh nghiệp mới chịu đựng được. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chỉ có 5 – 10 ngân hàng lớn, không cạnh tranh quá mức. Nhưng hiện tại Việt Nam có tới hơn 27 ngân hàng, cạnh tranh lãi suất huy động rất dữ dội trong khi năng suất lao động rất thấp, bình quân chỉ bằng ¼ của các Ngân hàng trên thế giới.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 4.

Vậy tại sao lãi suất của mình cứ cao như vậy?

Vì các ngân hàng cạnh tranh nhau thôi. Huy động vốn thì phải tăng lãi suất để hút tiền gửi. Mà có tới 30 ngân hàng (nay còn 27), ngân hàng nào cũng cố gắng huy động vốn để cho vay.

Có những ngân hàng "nhỏ", nhưng cũng đua tăng lãi suất huy động lên cao. Người dân đổ xô đi gửi nơi có lãi suất cao buộc các ngân hàng lớn cũng phải tăng lãi suất không thì khách hàng chạy mất, khiến cho mặt bằng toàn thị trường bị đẩy lên. Mà mặt bằng lãi suất cao như vậy thì chỉ có thể làm bất động sản mới trụ nổi. Sản xuất công nghiệp thì rất dễ bị bóp chết.

Hiện tại chúng ta đang có 27 ngân hàng nội địa, chưa kể 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thì huy động vốn rất ít ở Việt Nam vì lãi suất cao, họ chủ yếu sử dụng vốn bản địa.

Còn các ngân hàng nội địa, vì áp lực cạnh tranh trong một thị trường nhỏ hẹp, các ngân hàng sẵn sàng đẩy lãi suất huy động lên để hút dòng tiền gửi về phía mình. Những ngân hàng quốc doanh lớn, dù muốn giữ ổn định, cũng không thể đứng ngoài cuộc. Nếu không tăng, khách hàng lập tức rút tiền, chuyển sang ngân hàng khác trả lãi cao hơn. Cuối cùng, họ buộc phải "nhích lên một chút", dù không chủ trương chạy đua. Đó là vòng xoáy rất thật của thị trường.

Muốn lãi suất cho vay giảm thì có ba cách.

Cách thứ nhất là tăng cung tiền, tức là bơm thêm tiền ra nền kinh tế. Nhưng nếu làm vậy, nguy cơ lạm phát sẽ rất lớn, và hiện tại khó có thể kiểm soát được.

Cách thứ hai, quyết liệt hơn, là tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tức là giảm số lượng ngân hàng xuống còn khoảng 10 ngân hàng lớn. Nhưng làm cách này bây giờ gần như là bất khả thi, vì mỗi ngân hàng hiện đã hình thành một hệ sinh thái riêng.

Cách thứ ba là kiểm soát chặt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR và áp dụng cơ chế bảo hiểm tiền gửi nghiêm minh, không bảo hiểm 100% tiền gửi như hiện nay ở Việt Nam. Trên cơ sở đó buộc các ngân hàng phải minh bạch, tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động và đẩy nhanh số hóa ngân hàng.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 5.

Quy mô dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế Việt Nam hiện khoảng 140% GDP. Có nhiều người cho rằng đây là mức rủi ro. Song chúng ta lại đang có lộ trình bỏ cơ chế điều hành bằng chỉ tiêu hạn mức tăng trưởng tín dụng. Ông nghĩ thế nào về điều này?

Thực ra, việc bỏ room tín dụng ở Việt Nam không phải là mới. Trước đây, Việt Nam cũng từng làm trong một thời gian. Trên thế giới hiện nay cũng hầu như không còn quốc gia nào áp dụng biện pháp này.

Bởi vì trần tín dụng chỉ là một biện pháp hành chính. Tín dụng dù có bị khống chế vẫn tăng rất mạnh vì chúng ta nhiều lần nới room, dẫn tới lạm phát.

Nhiều chuyên gia đã kiến nghị từ hàng chục năm trước rằng nên bỏ room tín dụng, và thay vào đó là quản lý bằng những công cụ hiệu quả hơn. Ví dụ như quản lý bằng các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), theo chuẩn Basel: Basel I, Basel II, rồi hiện tại là Basel III, chuẩn bị bước sang Basel IV, Basel V. Ngân hàng muốn tăng huy động thì phải tăng vốn tự có. Ngân hàng tăng được huy động thì mới có thể cho vay.

Khi ấy, nếu ngân hàng muốn huy động thêm vốn, thì phải có đủ vốn chủ sở hữu và có năng lực tài chính đủ mạnh. Và khi đã huy động được 10 đồng, thì chỉ được cho vay tối đa 8 đồng, hoặc 8,5 đồng, tuỳ theo tỷ lệ quy định của NHNN.

Các tỷ lệ đó và các chỉ tiêu an toàn khác mà NHNN đã ban bố từ lâu là đủ để khống chế mọi ngân hàng thương mại trong khuôn khổ an toàn. Vì những con số đó hoàn toàn nằm trong giám sát của Ngân hàng Nhà nước.

Hơn nữa, hiện nay, việc giám sát cũng đã được số hóa mạnh mẽ. Một khoản vay bất thường ở bất kỳ ngân hàng nào đều có thể hiển thị ngay lập tức trên màn hình giám sát của Ngân hàng Trung ương.

Vấn đề thứ hai không nằm ở kỹ thuật giám sát, mà là ở việc buộc các ngân hàng thương mại phải cạnh tranh một cách sòng phẳng và công bằng. Không nên để tình trạng người dân cứ tìm đến ngân hàng nào lãi suất cao để gửi tiền, bất kể năng lực tài chính của ngân hàng đó như thế nào.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 6.

Một ngân hàng nhỏ, vốn tự có mỏng mà lại đưa ra lãi suất huy động cao thì thực chất là rất nguy hiểm. Không thể để thị trường chạy theo lãi suất một cách mù quáng như vậy.

Chính vì thế, người dân cần được hướng dẫn để lựa chọn ngân hàng không chỉ dựa vào lãi suất, mà còn dựa vào năng lực tài chính, độ an toàn vốn. Phải biết tìm đến những ngân hàng lớn, có vốn tự có mạnh, có hệ số an toàn cao.

Đây là lúc cần nâng tầm quan trọng của quỹ bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam. Trên lý thuyết, luật pháp đã có quy định khá chặt chẽ, nhưng trên thực tế thì quỹ này chỉ đang hoạt động chủ yếu với các quỹ tín dụng nhân dân, chứ chưa can thiệp được vào hoạt động bảo hiểm tiền gửi cho các ngân hàng thương mại.

Vì vậy, nhiều người dân vẫn ngầm hiểu rằng Nhà nước bảo lãnh 100% số tiền gửi, bất kể gửi ở ngân hàng nào. Điều đó tạo ra tâm lý chủ quan, cứ thấy lãi cao là gửi, không quan tâm đến rủi ro. Nếu áp dụng nghiêm theo đúng Luật Bảo hiểm tiền gửi, thì mỗi người dân chỉ được bảo hiểm tối đa một mức nhất định, ví dụ 200 triệu đồng/người/ngân hàng.

Làm được điều đó, người dân sẽ dần chuyển tiền sang các ngân hàng lớn, an toàn hơn. Và chính những ngân hàng lớn đó mới là lực kéo để hạ mặt bằng lãi suất xuống.

Còn hiện tại, nhiều ngân hàng nhỏ cứ đẩy lãi suất lên để hút khách, cuối cùng lại khiến mặt bằng lãi suất toàn hệ thống bị kéo lên theo. Mà khi lãi suất cao như vậy, không thể nào làm được công nghiệp, không thể làm khoa học công nghệ. Chỉ có đầu cơ, bất động sản là chịu nổi.

Việc điều hành tín dụng vẫn phụ thuộc nhiều vào trần, quota, mệnh lệnh thay vì dựa vào các công cụ thị trường. Do đó, việc bỏ room tín dụng cần thiết. Nhưng để làm được điều đó, cần thay đổi mạnh mẽ tư duy, coi trọng nguyên tắc thị trường, không làm thay thị trường, trên cơ sở đó hiện đại hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng và công cụ điều hành tiền tệ.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 7.

Trong những năm qua, một số ngân hàng tư nhân có tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Hiện đã có 2 ngân hàng tư nhân là Techcombank, VPBank có tổng tài sản trên 1 triệu tỷ đồng. Ngoài đóng góp về mặt ngân sách, ông đánh giá thế nào về vai trò và những đóng góp khác của khối ngân hàng tư nhân đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng?

Trước hết, ngân hàng tư nhân là lực lượng chính phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể. Họ dẫn đầu trong việc đẩy mạnh các khoản vay vài chục triệu, vài trăm triệu nhỏ lẻ như vậy từ khi các ngân hàng lớn còn chưa mặn mà do không có đủ nhân sự để xử lý, hoặc thấy không đáng để triển khai.

Chính vì vậy, cả một phân khúc thị trường rất lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ, cá nhân tiêu dùng... đang được các ngân hàng tư nhân "gánh vác".

Thứ hai là lĩnh vực cho vay tiêu dùng, vay mua nhà, mua xe, vay chi tiêu cá nhân,…Đây là mảng mà các ngân hàng tư nhân như VPBank đã phát triển rất mạnh, sau đó nhiều ngân hàng khác như TPBank, HDBank... cũng đi theo hướng đó.

Nhờ có chuyển đổi số và tích lũy dữ liệu khách hàng, các ngân hàng tư nhân sử dụng mạnh mẽ hơn AI để đánh giá rủi ro tín dụng và tập trung phát triển các sản phẩm vay cá nhân quy mô nhỏ một cách bài bản hơn.

Còn tất nhiên, cũng phải nhìn nhận thực tế là nhiều ngân hàng tư nhân nhỏ hiện nay vẫn đang hoạt động theo hệ sinh thái "khép kín" — tức là vốn đổ vào các công ty có liên quan, hoặc bất động sản. Có những khoản vay đứng tên doanh nghiệp sản xuất, nhưng dòng tiền lại được xoay vòng sang đầu tư địa ốc. Điều này gây khó khăn cho công tác giám sát và điều tiết chính sách.

Tuy nhiên, khi room tín dụng được mở, nhưng quản lý được thực hiện qua các hệ số an toàn thì sẽ không còn chuyện ngân hàng nhỏ "muốn tăng vốn ảo bao nhiêu thì tăng", "muốn huy động bao nhiêu thì huy động".

Việc phải tuân thủ các tỷ lệ an toàn sẽ khiến các ngân hàng nhỏ buộc phải thu hẹp hoạt động vào đúng các phân khúc của mình — như kinh tế hộ gia đình, cho vay tiêu dùng, doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 8.

Những xu hướng lớn nào trong thời gian tới sẽ định hình hệ thống ngân hàng?

Một điều đáng lưu ý là tuy số lượng ngân hàng ở Việt Nam rất nhiều, tốc độ tăng tổng tài sản cũng khá nhanh, có ngân hàng tăng 15–20%/năm nhưng năng suất lao động vẫn còn rất thấp.

Vì năng suất thấp, nên để duy trì lợi nhuận, các ngân hàng buộc phải duy trì lãi suất cao, cả ở đầu vào (tiền gửi) lẫn đầu ra (cho vay). Mà khi lãi suất cao, doanh nghiệp và người tiêu dùng đều phải gánh chi phí tài chính nặng nề.

Thực tế, chi phí vận hành cao của hệ thống ngân hàng phần lớn đến từ việc bộ máy còn cồng kềnh, sử dụng nhiều nhân lực, chưa số hóa triệt để.

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển như hiện nay, việc phân tích tín dụng, đánh giá rủi ro, thẩm định hồ sơ... hoàn toàn có thể giao cho hệ thống AI, chứ không cần phải sử dụng hàng trăm, hàng ngàn con người như trước.

Ở châu Âu, tôi từng đến một ngân hàng trước đây có tới 200 nhân viên trong một chi nhánh. Bây giờ, cả chi nhánh ấy chỉ còn vài người, còn lại là máy làm hết, hồ sơ số hóa, AI kiểm định, đánh giá tự động. Khi cơ sở dữ liệu đủ tốt, máy có thể làm còn chính xác hơn người.

Do đó, nếu các ngân hàng Việt Nam muốn kéo lãi suất xuống, thì phải bắt đầu bằng việc cải thiện năng suất, cắt giảm chi phí, đầu tư vào số hóa và tự động hóa.

Gần đây, một số ngân hàng tư nhân lớn đã bắt đầu phát triển theo mô hình hệ sinh thái tài chính, họ còn mở rộng sang bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng đầu tư, tiêu dùng..., và bán chéo sản phẩm giữa các đơn vị.

Đây là một xu hướng tất yếu nếu muốn ngân hàng phát triển lên tầm tập đoàn. Nhưng khác với mô hình tập đoàn truyền thống, các tập đoàn tài chính kiểu mới phải đặt trọng tâm vào chuyển đổi số, phải lấy ngân hàng số làm nền tảng.

TS Lê Xuân Nghĩa: Lãi suất cao kỳ hạn ngắn thì không thể nào làm được công nghiệp, khoa học công nghệ, chỉ có làm bất động sản mới chịu nổi- Ảnh 9.

Không thể chỉ là gom nhiều công ty con vào rồi tăng chi phí, khó kiểm soát, chồng chéo về mặt quản trị. Ngược lại, phải liên thông dữ liệu, tích hợp quy trình và tối ưu bằng công nghệ, nói cách khác các Ngân hàng Thương mại phải tiên phong trong việc số hóa và AI hóa để tăng năng suất, giảm rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận.

Tôi hay ví dụ thế này: một bác sĩ giỏi cả đời có thể khám cho vài trăm người. Nhưng một hệ thống AI tích lũy dữ liệu từ hàng triệu hồ sơ khám chữa bệnh, sẽ có khả năng đưa ra chẩn đoán còn chính xác hơn con người, đơn giản vì nó không chỉ học từ một người, mà học từ một triệu bác sĩ cùng lúc.

Trong ngành ngân hàng cũng vậy. Một người có thể đọc vài chục hồ sơ trong ngày đã là quá nhiều, nhưng AI có thể đọc hàng triệu bản báo cáo tài chính, đánh giá tín dụng trong vài phút.

Vì thế, ngân hàng của tương lai là ngân hàng số, và xa hơn nữa là ngân hàng vận hành trên nền tảng dữ liệu lớn. Đó là lý do vì sao các kỹ năng tương lai trong ngành ngân hàng sẽ là: Khoa học dữ liệu; Quản lý dữ liệu và hệ thống; Marketing số – digital marketing.

Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

Bài :
Lan Anh
Thiết kế:
Hương Xuân

Link nội dung: https://www.nhiepanhvacuocsong.net/ts-le-xuan-nghia-lai-suat-cao-ky-han-ngan-thi-khong-the-nao-lam-duoc-cong-nghiep-khoa-hoc-cong-nghe-chi-co-lam-bat-dong-san-moi-chiu-noi-a27735.html