Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?

Theo GS. TSKH Nguyễn Mại, từ một nước nghèo, làm không đủ ăn, nhưng Việt nam vẫn mạnh dạn tuyên bố với IMF, WB, ADB, WTO… và 650 nhà đầu tư nước ngoài rằng: “Việt Nam mở cửa, sẵn sàng sửa Hiến pháp, cam kết bảo vệ tài sản và quyền lợi để trở thành điểm đến lý tưởng, quê hương thứ 2 của doanh nghiệp FDI”. Tuyên bố táo bạo này đã mở ra bước ngoặt lớn cho nền kinh tế.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 1.

Trong hành trình 80 năm phát triển, thực tế 30 năm đầu tiên Việt Nam vẫn nằm trong công cuộc thống nhất đất nước. Theo ông, đâu là những cột mốc kinh tế nổi bật trong giai đoạn này?

Giai đoạn 1945–1975 là 30 năm đất nước còn chia cắt và chịu nhiều tác động từ bối cảnh chính trị. Tuy nhiên, xét riêng về kinh tế, có thể thấy tồn tại 2 mô hình kinh tế khác biệt giữa hai miền.

Ở miền Bắc, nền kinh tế vừa thực hiện mục tiêu xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo nguồn lực cho các nhiệm vụ chiến lược. Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, với trọng tâm là đảm bảo lương thực cho toàn xã hội và lực lượng lao động.

Miền Bắc cũng nhận được sự hỗ trợ lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, dưới dạng vật tư chiến lược như sắt thép, bông sợi, lúa mì, xăng dầu. Một số nhà máy, công trình hạ tầng cơ bản đã được xây dựng trong thời gian này, đặt nền móng ban đầu cho phát triển công nghiệp sau này.

Trong khi đó, miền Nam theo mô hình kinh tế thị trường, với các đô thị lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang hình thành một tầng lớp doanh nhân và hệ thống sản xuất, phân phối hàng hóa mang tính tư nhân. Tuy phát triển khá ẻo uột và phụ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, nhưng miền Nam đã từng bước hình thành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và giao thương.

Dù chịu nhiều biến động, giai đoạn 1945–1975 vẫn ghi nhận nỗ lực duy trì mô hình kinh tế phù hợp từng miền, miền Bắc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, miền Nam phát triển kinh tế thị trường, tạo tiền đề cho phát triển sau thống nhất.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 2.

Năm 1975, Việt Nam chính thức thống nhất đất nước và gặp rất nhiều khó khăn về mặt kinh tế. Ông thấy gì từ cách Việt Nam nỗ lực thay đổi nền kinh tế?

Giai đoạn 1945–1975 là 30 năm đất nước còn chia cắt và chịu nhiều tác Sau 30/4/1975, đất nước được thống nhất, mở ra cơ hội để cả hai miền bước vào giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với hàng loạt khó khăn. Một phần do bối cảnh chính trị phức tạp, khiến Việt Nam rơi vào tình trạng bị cấm vận kéo dài gần 20 năm, từ 1975 đến 1994. Trong thời gian này, quan hệ với nhiều đối tác lớn, đặc biệt là các nước phương Tây bị đóng băng; ngay cả với một số nước láng giềng, quan hệ cũng không thuận lợi.

Khó khăn chồng chất khó khăn, cộng thêm mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp dẫn tới triệt tiêu động lực phát triển. Cơ chế phân phối bằng tem phiếu, môi hình tăng trưởng cũ không tạo ra môi trường thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Kết quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ kéo dài, lạm phát gia tăng, làm không đủ ăn.

Tuy nhiên, Việt Nam đã quyết chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế. Chúng ta đã chủ động bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ. Cụ thể, năm 1995, hai bên chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu bước ngoặt quan trọng sau khi Mỹ tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 3.

Năm 1986 đánh dấu bước ngoặt mới về đổi mới và Việt Nam bắt đầu mở cửa hội nhập quốc tế. Ông đánh giá thế nào bước đi chiến lược này?

Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa ra một quyết định mang tính lịch sử. Đó là thừa nhận những sai lầm trong đường lối phát triển trước đó và chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.

Đến năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên được ban hành nhằm thu hút dòng vốn FDI tạo động lực phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đến năm 1990, tình hình kinh tế mới dần ổn định. Trước đó, lạm phát diễn biến nghiêm trọng, có thời kỳ tăng tới 800–900%/năm. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp quyết liệt để kiểm soát lạm phát và phục hồi kinh tế.

Điển hình là Diễn đàn Đầu tư nước ngoài tổ chức năm 1991 tại TP.HCM, Việt Nam tuyên bố mạnh mẽ chính sách mở cửa, khẳng định sẽ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho nhà đầu tư quốc tế, sửa Hiến pháp để khẳng định đảm bảo tài sản hợp pháp không trưng thu, trưng mua, không bất kỳ một áp đặt nào ảnh hưởng đến tài sản của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta biết rõ mở cửa kinh tế thì "ruồi muỗi" sẽ vào, nhưng không mở thì không thể phát triển được!

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 4.

Cùng với đó, để hạ nhiệt lạm phát, khi lạm phát lên đến 9%/tháng, tổ công tác đặc biệt đề xuất áp dụng lãi suất dương, tức lãi suất tiền gửi cao hơn tỷ lệ lạm phát để hút tiền trong dân. Khi đó, do chưa có nhà in tiền, phải nhờ Liên Xô in với chi phí in ấn vận chuyển về đến Việt Nam mất khoảng 15%. Vì thế, nâng lãi suất tiết kiệm lên 12%, cao hơn lạm phát 3%, vừa giúp nhà nước không phải in thêm tiền, vừa củng cố niềm tin của người dân vào chính sách tiền tệ và nhà nước cũng có lợi 3%.

Kết quả khi tiền gửi tăng lên, cung – cầu dần cân bằng, lạm phát giảm mạnh giảm xuống 5%, hàng hóa trở nên dồi dào, sản xuất phục hồi.

Có thể nói rằng, giai đoạn 1991-1997 là thời kỳ "hoàng kim" của kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch 5 năm 1991–1995 đặt mục tiêu khoảng 5–5,5%, nhưng thực tế đạt trung bình 8,5% trong cả giai đoạn 1991–1997. Tất cả các chỉ tiêu về công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều vượt kế hoạch. Đây là kết quả của những bước đi chiến lược đúng đắn trong đổi mới tư duy và thể chế, đặt nền móng cho quá trình phát triển bền vững về sau.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 5.

Sau thời kỳ hoàng kim, Việt Nam đối mặt với khủng hoảng tài chính khu vực 1997–1998 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008. Nước ta đã vượt qua giai đoạn này thế nào?

Vào năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực khởi phát từ việc Thái Lan thả nổi đồng Baht, khiến tỷ giá từ mức 24–25 Baht/1 USD vọt lên hơn 50–55 Baht/USD. Dù lúc đó Việt Nam chưa mở cửa thị trường tiền tệ, nhưng tác động lan truyền là điều không thể tránh khỏi.

Từ năm 1998 đến 2002, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng rõ rệt: xuất nhập khẩu giảm sút, đầu tư nước ngoài chững lại, tăng trưởng kinh tế giảm từ mức bình quân 8,5% trước đó xuống còn khoảng 3–4%. Đến năm 2005, kinh tế phục hồi và tăng trưởng trở lại mức trên 8% trong ba năm liên tiếp.

Tuy nhiên, đến năm 2008, kinh tế thế giới lại rơi vào một cuộc khủng hoảng khác và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng. Tăng trưởng chững lại trong giai đoạn 2008–2010, buộc chúng ta phải áp dụng nhiều giải pháp đặc biệt để ứng phó. Trong đó, chính sách tiền tệ linh hoạt được triển khai, với việc điều chỉnh lãi suất tiết kiệm cao hơn tỷ lệ lạm phát nhưng sẽ không cao như giai đoạn chống lạm phát trước.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng thực hiện các biện pháp tiết kiệm chi tiêu ngân sách, giảm đầu tư công. Từ 2008 đến 2010 là khoảng thời gian nhiều thử thách, nhưng nhờ những kinh nghiệm quý báu từ chống lạm phát giai đoạn trước, Việt Nam đã vượt qua sóng gió, giữ vững được ổn định kinh tế – xã hội và tạo đà phục hồi cho giai đoạn tiếp theo.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 6.

Sau thời kỳ đổi mới, Việt Nam hội nhập mạnh mẽ, FDI dần trở thành động lực tăng trưởng chính. Ông có nhận xét gì về mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn này?

Trên thực tế, chúng ta luôn xác định hội nhập kinh tế quốc tế là một trong hai trụ cột quan trọng để phát triển đất nước. Một là phát triển kinh tế trong nước, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp; hai là đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập được xây dựng trên nguyên tắc hợp tác cùng có lợi, cùng hiệu quả, nhưng đồng thời phải bảo đảm được tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.

Cùng với đó, không một quốc gia nào phát triển mà không trải qua những giai đoạn thích ứng khác nhau. Thời điểm đầu mở cửa, Việt Nam còn rất nghèo, thiếu vốn, thiếu công nghệ và trình độ lao động còn thấp. Vì vậy, chúng ta buộc phải thu hút đầu tư vào các lĩnh vực có lợi thế trước mắt như khai thác tài nguyên, điển hình là dầu khí, sắt thép, quặng mỏ để tích lũy vốn ban đầu cho phát triển.

Hơn nữa, Việt Nam có nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn. Mỗi năm có hàng triệu người bước vào độ tuổi lao động, từ quân đội xuất ngũ, doanh nghiệp nhà nước tinh giản biên chế đến lực lượng lao động trẻ mới ra trường. Vì vậy, chúng ta chủ động ưu tiên thu hút các dự án thâm dụng lao động như dệt may, da giày, dịch vụ…, bởi một dự án quy mô chỉ khoảng 1 triệu USD đã có thể tạo việc làm cho 300–400 lao động.

Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư gay gắt với nhiều nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan hay Malaysia, Việt Nam buộc phải đưa ra các chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn. Tuy nhiên, các chính sách đó vẫn nằm trong khuôn khổ kiểm soát chặt chẽ để Nhà nước giữ được chủ quyền và lợi ích lâu dài.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 7.

Có ý kiến cho rằng Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào FDI, ông nhìn nhận quan điểm này thế nào?

Về FDI, nhiều người thường đánh giá chưa thật sự khách quan và đầy đủ. Thực tế, trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là dầu khí, chúng ta đã hợp tác rất hiệu quả và có lợi.

Ví dụ, trong các hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí, phía nước ngoài chịu toàn bộ chi phí đầu tư, mang công nghệ hiện đại vào, chủ yếu thăm dò trên thềm lục địa Việt Nam. Thăm dò dầu khí là quá trình rủi ro cao, phải khoan 10 đến 12 mũi mới có một mũi có giá trị thương mại, nên họ bỏ rất nhiều tiền, trong khi Việt Nam gần như không phải chi gì.

Khi phát hiện mỏ dầu thương mại, hai bên mới bắt đầu phân chia sản phẩm theo tỷ lệ đã thỏa thuận, đảm bảo nhà đầu tư có lợi nhuận khoảng 12–15%. Phần còn lại, Việt Nam được hưởng nguồn dầu thô để xuất khẩu, có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu và hàng tiêu dùng, rất thiết thực và rõ ràng. Nếu không tìm thấy dầu thì chúng ta cũng không mất gì.

Ngoài ra, các hợp đồng dầu khí thường có 3 yếu tố rất quan trọng. Thứ nhất là đào tạo, các tập đoàn lớn như BP, Statoil, BSP buộc phải đào tạo đội ngũ chuyên gia Việt Nam ở chính các tập đoàn hoặc trường đại học hàng đầu thế giới. Nhờ đó, PetroVietnam đã xây dựng được một đội ngũ hàng vạn chuyên gia giỏi.

Thứ hai là công nghệ, rất nhiều người nghĩ rằng doanh nghiệp FDI phải chuyển giao công nghệ cho mình, làm gì có chuyện đấy! Người Việt Nam phải tự thông minh, thông qua quá trình làm việc, học hỏi và dần làm chủ công nghệ. Nhờ đó, hôm nay dầu khí Việt Nam đã có thể tự thăm dò ở châu Phi, Venezuela, thậm chí đóng giàn khoan cho nước ngoài.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 8.

Thứ ba là tài chính, giai đoạn đó Việt Nam rất thiếu ngoại tệ. Vì vậy, mỗi dự án dầu khí đều có khoản hỗ trợ ban đầu (cash bonus), có dự án được tặng tới 80 triệu USD. Đây là nguồn vốn quý báu trong thời điểm khó khăn.

Không chỉ dầu khí, lĩnh vực công nghệ thông tin cũng là ví dụ điển hình. Hợp tác giữa VNPT và Telstra (Úc) từ 1991–2000 chỉ trị giá 10 triệu USD nhưng mang lại hiệu quả rất lớn.

Thứ nhất, họ giúp đào tạo nhân lực, nhiều lãnh đạo hiện nay tại Viettel, Mobifone, VNPT đã trưởng thành từ đó. Thứ hai, họ hướng dẫn cách phát triển dịch vụ. Nhờ đó, giá điện thoại, truyền hình, từng rất đắt nay rẻ nhất khu vực. Hiện Việt Nam có hơn 130 triệu thuê bao smartphone, học sinh phổ cập máy tính, và phủ sóng 5G đến tận vùng sâu, vùng xa.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 9.

Trong bối cảnh hiện nay, mô hình tăng trưởng của Việt Nam nên thay đổi ra sao?

Việt Nam đã chuyển dịch mạnh mẽ từ một nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư nước ngoài không chỉ góp phần thúc đẩy tăng trưởng và thay đổi cơ cấu kinh tế, mà quan trọng hơn là tạo điều kiện để người dân Việt Nam tích lũy vốn, cùng với nguồn kiều hối gửi về, đã giúp hình thành hàng vạn doanh nghiệp.

Nếu trước đây hầu hết các dự án lớn từ cầu, đường đến khu công nghiệp đều trông chờ vào vốn và công nghệ nước ngoài, thì giờ đây nhiều doanh nghiệp trong nước đã làm chủ được. Các tập đoàn như Vingroup, Sun Group, Hòa Phát... đủ năng lực thi công, vận hành. Như vậy, chúng ta không nên phủ nhận vai trò của FDI, nhưng cần chuyển hướng sang mô hình tăng trưởng mới thông qua việc tập trung vào doanh nghiệp nội địa một cách kịp thời.

Bên cạnh đó, các tập đoàn lớn như Viettel, EVN, PVN... cũng đã mở rộng hoạt động ra thế giới. Tập đoàn tư nhân như Vingroup đầu tư sang Mỹ, phát triển công nghệ hiện đại với ô tô điện, xe buýt điện... đồng thời tổ chức giải thưởng khoa học quốc tế VinFuture trị giá 5–6 triệu USD/năm, được ví như "Nobel của Việt Nam".

Chính vì vậy, chúng ta đã xác định rõ chiến lược phát triển: tăng tốc mạnh mẽ, sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn, đầu tư hiệu quả hơn, không chỉ coi trọng đầu tư trong nước, mà còn tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài một cách chọn lọc. Từ chỗ tập trung vào thu hút FDI ở châu Á, giờ đây chúng ta hướng tới cả các tập đoàn lớn từ châu Âu, Mỹ và các lĩnh vực công nghệ cao, hiện đại.

Hơn nữa, chúng ta lên định hướng phát triển phù hợp theo từng vùng miền. Tại các trung tâm lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang, Cần Thơ cần chuyển dịch nhanh sang công nghiệp công nghệ cao, AI, bán dẫn, tài chính hiện đại, các mô hình thị trường mở. Những địa phương đang phát triển có thể kết hợp thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài.

Còn miền núi, vùng sâu vùng xa cần tập trung đầu tư hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực... để dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đưa hàng hóa ra thị trường trong nước và quốc tế.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 10.

Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong giai đoạn tới. Theo ông, những yếu tố nào sẽ quyết định thành công của mục tiêu này?

Tôi cho rằng mục tiêu tăng trưởng 2 chữ số là rất khó, nhưng không phải không thể. Để thực hiện được mục tiêu này, một trong những vấn đề quan trọng là không chỉ chống tham nhũng mà còn phải kiên quyết chống lãng phí.

Cùng với đó, gần đây, chúng ta đã bắt đầu chuyển đổi số, áp dụng công nghệ điện tử vào thủ tục hành chính. Hay trong lĩnh vực thuế, trước đây phương thức quản lý còn nhiều bất cập, giờ chủ trương mới là hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí, tăng tính minh bạch và dễ tiếp cận. Cơ quan thuế đang phối hợp với các tổ chức tư vấn, đẩy mạnh công nghệ, đưa các phần mềm, ứng dụng vào thu thuế.

Ngay cả những người buôn bán nhỏ như bà bán rau, hàng cá... cũng đã bắt đầu sử dụng app thanh toán. Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay đạt khoảng 80–85%, và đang tiếp tục tăng nhanh. Đây là một chuyển động tích cực, thể hiện hiệu quả của quá trình chuyển đổi số. Tất nhiên, hiệu quả cần thời gian để kiểm chứng, nhưng nếu làm tốt thì tăng trưởng sẽ được cải thiện mạnh mẽ.

Từ nền kinh tế có lạm phát 900%, Việt Nam thành công kiềm chế và vượt 2 khủng hoảng lớn, tạo đà tăng trưởng trên 10% thế nào?- Ảnh 11.

Theo lý thuyết kinh tế, chỉ cần thay đổi thể chế tốt hơn, một quốc gia có thể tăng trưởng thêm 1% mỗi năm nhưng phải thực thi nghiêm túc đường lối. Những người đứng đầu nếu thiếu trách nhiệm cần bị kỷ luật nghiêm minh như cách mà chúng ta vẫn làm là "ai không dám làm thì mạnh dạn đứng sang một bên cho người khác làm". Chỉ có như vậy, bộ máy mới hoạt động hiệu quả và đưa đất nước tiến lên đúng hướng.

Bài:
Bình Minh
Thiết kế:
Hải An

Link nội dung: https://www.nhiepanhvacuocsong.net/tu-nen-kinh-te-co-lam-phat-900-viet-nam-thanh-cong-kiem-che-va-vuot-2-khung-hoang-lon-tao-da-tang-truong-tren-10-the-nao-a27772.html